Napoleon : chiến dịch ở Ý (1796-1797) – Chiến thắng liên tiếp

Bên Phải Là Một Vài Bức Ảnh Minh Họa

Tên các địa danh sẽ được in đậm để phân biệt với tên người.
Tên chỉ huy phía Pháp trừ Napoleon sẽ in nghiêng để phân biệt với chỉ huy phía quân liên minh.

Tên chỉ huy phía Pháp trừ Napoleon sẽ in nghiêng để phân biệt với chỉ huy phía quân liên minh. Ngày 02/03/1796, Napoleon được phong làm chỉ huy lực lượng quân Pháp tại Ý. Trong số 13 đạo quân chính quy của nền Cộng hòa Pháp lúc này, Tập đoàn quân Ý là lực lượng yếu kém nhất, từ trang bị đến tinh thần. Họ đang trong tình trạng cực kỳ tồi tệ khi Napoleon đến, và ông bị đặt vào một chiến tuyến với tương lai mờ mịt. Tuy nhiên sau khi ông đến, quân nhu và đồ tiếp tế cũng đến và tình hình đã bắt đầu được cải thiện, Napoleon gần như ngay lập tức tổ chức một cuộc tấn công sau khi ông đến tiền tuyến vào ngày 27/03. Lực lượng gồm 37 600 quân vào 60 đại bác của ông đối mặt với 67 000 quân đồng minh ở bên kia chiến tuyến. Chi viện duy nhất có thể là quân Kellermann của quân đoàn dãy Alps, nhưng lực lượng này bản thân cũng đang đối mặt hơn 20 000 quân đồng minh. Napoleon cũng không có bất kỳ cơ hội được tăng viện nào vì nền Cộng hòa đang dồn sức tổ chức cuộc tấn công lớn vào khu vực sông Rhine. Chiến dịch Montenotte mở đầu cho huyền thoại Italia của Napoleon với hai phe tham chiến là Pháp do Napoleon chỉ huy và liên quan gồm Vương triều Habsburg do Johann Beaulieu chỉ huy và Vương quốc Sardinia do Michelangelo Colli chỉ huy. Bắt đầu vào ngày 10/04/1796 tại Voltri và kết thúc với thỏa thuận ngừng bắn Cherasco vào ngày 28/04/1796. Trong vòng 2 tuần rưỡi, Napoleon đã tiêu diệt một trong những kẻ địch của nước Pháp và làm tê liệt quân đội một đối thủ khác. Chiến dịch bắt đầu bằng trận Voltri. Beaulieu, chỉ huy lực lượng Habsburg cùng với Sebottendorf, chỉ huy cánh trái của quân Áo với 3200 quân bắt đầu tiến quân vượt quacon đường núi Turchino nhằm tấn công 5200 quân Pháp do Cervoni chỉ huy đang đóng tại Voltri. Cùng lúc đó, 4000 quân của Pittoni (cũng là quân Áo) vượt qua đường núi Bocchetta. Tổng cộng quân tấn công lên đến 7200 người. Bị áp đảo về số lượng, quân Pháp rút lui về phía Tây để tránh một cái bẫy của liên quân (Pháp mất 227 người, liên minh mất 50 người). Beaulieu không truy kích quân Pháp của Cervoni mà bắt đầu di chuyển quân của mình để hỗ trợ cách phải. Ông để lại 2 tiểu đoàn để phòng thủ Voltri và giao 4 tiểu đoàn cho Vukassovich, một chỉ huy của Habsburg, hành quân qua các ngọn đồi để đến Sassello bằng một con đường khó đi. Phần lớn quân của Beaulieu được lệnh trở về Acqui. Một ngày sau, quân Habsburg do Argenteau và Mathias tập trung 4000 quân gần Montenotte vào sáng ngày 11, lực lượng này hành quân về phía Đông nam tiến đến 2000 quân Pháp tại Monte Negino. Trong khi đó, một lữ đoàn quân Áo thứ hai đã chiếm đóng Sasselio. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của đại tá Ramponđã đánh bại một số đợt tấn công của quân Áo tại Monte Negino trong ngày. Ngày hôm sau, Napoleon ra lệnh cho Laharpe tấn công quân Áo do Argenteau chỉ huy với hai lữ đoàn trong khi quân Pháp do Massénachỉ huy bao vây sườn quân Áo với lữ đoàn thứ ba. Ông cũng chỉ huy Augereau và Meynier tập trung quân vào khu vực Carcare. Ngày 12/04, quân Pháp của Napoleon đã đánh bại quân Áo của Argenteau tại trận Montenotte (9000 quân Pháp với 18 đại bác đối đầu 6000 quân liên minh với 12 đại bác). Khi Laharpe tấn công trực diện từ Monte Negino với 7000 quân, Masséna di chuyển lên phía Bắc với 4000 quân và đánh vào cánh phải yếu kém của Argenteau. Trong khi đó, 11 000 quân nữa cũng đang di chuyển phía sau quân tiên phong. Masséna bẻ gãy cánh phải quân Áo. Quân Áo buộc phải rút lui và quân Pháp tiêu diệt quân Áo đang bị áp đảo về số lượng. Khi quân Áo rút lui đến Dego, Argenteau phàn nàn rằng chỉ có thể tập trung được có 700 quân. Kết quả Pháp mất 880 quân, liên minh mất 2500 quân và toàn bộ đại bác. Napoleon quay sang phía Tây để đối phó với quân Vương quốc Sardinia do Colli chỉ huy vào ngày 13/04. Để yểm trợ cuộc rút lui, Provera và 1000 binh lính được chọn lựa đã trú đóng tại một phế tích của lâu đài trên đỉnh đồi. Thay vì bỏ qua chướng ngại vật này, Napoleon ra lệnh cho 9000 quân Pháp do Augereau chỉ huy tấn công lâu đài. Trong cả ngày hôm đó, quân Áo – Sardinia đã đẩy lùi nhiều đợt tấn công của quân Pháp và gây thương vong nặng nề cho quân Napoleon. Quân phòng thủ rốt cuộc đầu hàng vào sáng ngày hôm sau khi họ cạn kiệt thức ăn, nước uống cũng như đạn dược. Quân Pháp mất khoảng 1000 người trong trận đánh chiếm lâu đài Carcare này. Vào ngày 14/04, Napoleon ra lệnh cho Masséna và Laharpe tấn công quân Áo của Argenteau trong trận Dego lần hai. Sau khi gây ra khoảng 1500 thương vong cho quân Pháp, đại đa số quân Áo đã bị giết, bị thương hoặc bị bắt. Argenteau phải dẫn phần còn lại của quân đội mình lùi về Acqui. Napoleon để Massénavà một lữ đoàn của Meynier ở lại để phòng thủ Dego và lệnh cho Laharpe quay lại Carcare. Beaulieu đã ra lệnh cho lữ đoàn của Vukassovich đến Dego vào ngày 14 để tham chiến, nhưng mệnh lệnh không rõ ràng đã khiến họ đến trễ một ngày. Bình minh ngày 15/04, Vukassovich gây bất ngờ cho Meynierkhi cướp phá thị trấn và giết chết quân Pháp ở đó. Masséna lập tức gọi Laharpequay lại để chiếm lại Dego. Một vài giờ sau, quân Pháp chiếm lại thị trấn sau một trận đánh khó khăn, với Napoleon giám sát trận đánh. Quân của Vukassovich rút lui về Acqui. Tổng cộng quân Pháp mất 1500 người vào ngày 14/04 và 938 người vào ngày 15/04, liên quân mất 3000 người trong ngày 14/04 và 1757 người trong ngày 15/04. Sau một trận cãi vã giữa hai chỉ huy tại Montezemolo, quân Sardinia rút về Ceva. Vào ngày 16/04, quân Pháp do Augereau chỉ huy tấn công quân Sardinia và bị đẩy lùi trong trận Ceva với hơn 600 người thương vong. Lo sợ quân Pháp do Sérurier chỉ huy đang tiến đến từ Ormea sẽ tấn công từ phía sau, Colli rút lui quân Sardinia về sông Corsaglia. Ông để một tiểu đoàn phía sau để phòng thủ pháo đài nhỏ ở Ceva. Napoleon ra lệnh cho Laharpe do thám Sassello để xác định Beaulieu đang ở đâu. Còn Meynier cáo bệnh nên Masséna nhận quyền trực tiếp chỉ huy sư đoàn vẫn còn đang ở gần Dego của ông. Laharpe trở lại Dego, báo cáo không thấy hoạt động quân địch. Trong khi đó Beaulieu đã tập hợp lại quân đội của mình gần Acqui và Colli ra lệnh cho Dichat chỉ huy 8000 lính và 15 đại bác phòng thủ vị trí Corsaglia. Vào ngày 19/04, Napoleon ra lệnh cho Sérurier tấn công San Michele trong khi Augereau sẽ tấn công bên cánh tuyến phòng thủ bờ sông từ phía bắc. Hành động của Augereau thất bại vì nước sông dâng cao. Quân của Sérurier chiến đấu dọc con sông, nhưng họ phân tán ra để tìm thức ăn và cướp bóc. Tận dụng cơ hội, Colli đánh trả và đẩy lùi người Pháp. Ngày hôm đó, Napoleon đổi đường tiếp tế từ hướng Cadibona dễ bị tấn công sang con đường an toàn hơn qua Imperia và Ormea. Napoleon gọi Masséna tạo thành ba sư đoàn tấn công vào vị trí San Michele. Laharpe có nhiệm vụ bảo vệ phía hông của quân đội không bị người Áo tập kích. Đối mặt với lực lượng quân Pháp tập trung tấn công, Colli từ bỏ phòng tuyến sông Corsaglia vào tối 20-21/04. Nhưng quân Pháp truy kích đã nhanh chóng đánh bại đội chặn hậu của quân Sardinia. Colli chỉ có vừa đủ thời gian tập trung lại quân đội của mình trước khi Sérurier mang quân tấn công trong trận Mondovi. Tướng Pháp để quân ít kinh nghiệm chiến đấu xếp thành 3 đội và bảo vệ họ bằng lực lượng dày dạn kinh nghiệm hơn phía trước. Sau đó, Sérurierdẫn đầu đội trung tâm xung phong với sư đoàn của Masséna yểm trợ. Quân Pháp dễ dàng phá vỡ chiến tuyến quân Sardinia và buộc họ phải từ bỏ Mondovi. Chỉ huy Dichat của quân Sardinia bị giết. Sau khi ép buộc chính quyền thành phố Mondovi cung cấp một lượng lớn lương thực, Napoleon bắt đầu truy đuổi kẻ địch. Vào sáng ngày 23/04, một chỉ huy quân Pháp nhận được bức thư từ Colli yêu cầu một hiệp định ngừng bắn. Không ngừng lại, Napoleon ra lệnh cho quân lính nhanh chóng chiếm được càng nhiều lãnh thổ càng tốt. Khi quân Pháp, vừa tả tơi vừa đói khát đến được vùng đất trù phú phía trước, lính Pháp đã bắt đầu cướp bóc và Napoleon đã phải xử bắn vài người để ngăn cản chuyện này. Đến ngày 25/04, Sérurier bên cánh trái đã đến Fossano, Masséna đang ở Cherasco ở trung tâm và Augereau đang chiếm Alba bên cánh phải, Laharpe ở phía sau, Macquard và Garnier thì đang tiến chiếm Cuneo. Khi lệnh ngừng bắn Cherasco được ký vào ngày 28/04, vùng lãnh thổ phía đông sông Stura di Demonte và Tanaro về tay nước Pháp. Pháo đài Cuneo, Ceva và Tortona bị quân Pháp đóng quân. Ngoài ra, Vương quốc Sardinia cho phép quân Pháp hành quân qua lãnh thổ của họ nếu muốn. Một điều khoản bí mật cho phép Napoleon vượt sông Po tại thành phố Valenza. Napoleon giao cho Joachim Murat mang hiệp định ngừng bắn này về Paris với tất cả các thông tin chi tiết. Thành công ở nơi mà những quân đội trước đó đều thất bại, Napoleon và quân đội của mình đã đá văng người Sardinia ra khỏi cuộc chiến chỉ bằng một chiến dịch duy nhất. Toàn chiến dịch, quân Pháp mất 6000 người trong khi quân đồng minh Áo – Sardinia mất khoảng 25 000 người. Trong khi ban đầu quân số quân đồng minh đông gấp 2 lần quân Pháp. Với việc Sardinia bị nốc ao, Pháp giờ có thể thoải mái tập trung vào kẻ địch lớn của họ, nước Áo. Không lâu sau đó, Napoleon đã mở một cuộc tấn công mới, và tất nhiên, nữ thần chiến thắng tiếp tục thuộc về Napoleon. Chiến thắng đầu tiên này có rất nhiều ý nghĩa, và là một chiến thắng không tưởng, khi một vị tướng quân trẻ, chỉ mới 27 tuổi, vừa đến chiến tuyến, đã dẫn dắt một đội quân rệu rã về mặt tinh thần, đói ăn và thiếu thốn quân nhu chiến thắng kẻ địch vốn trước giờ đang thắng thế và có quân số đông gấp đôi họ. Giúp Cộng hòa Pháp loại bỏ một đối thủ, chiếm được một vùng lãnh thổ ở phía Bắc nước Ý, đảm bảo an toàn cho miền Nam nước Pháp. Như một câu nói trong Napoleon Total War: “Napoleon đã nhìn thấy thế giới, vận mệnh của ông là thống trị nó”. Tài năng quân sự của Napoleon, cũng như khả năng chỉ huy, lãnh đạo quân lính được thể hiện rõ trong chiến dịch đầu tiên này, đặt nền móng cho niềm tin của binh lính Pháp sau này: “Chỉ cần có Napoleon, chúng ta sẽ thắng!”. Đây là chiến dịch đầu tiên của Napoleon nên mình viết kỹ, các bạn nếu cảm thấy nên viết ngắn gọn không cần quá chú ý vào các chi tiết của trận đánh thì sẽ lướt qua bớt. Còn nếu các bạn không có ý kiến thì mình sẽ tận lực tìm tư liệu kỹ càng về các trận đánh.


Sau khi tạm nghỉ một thời gian ngắn, Napoleon có một nước đi tạt cánh thông minh, và băng qua dòng sông Po tại Placenza, gần như cắt đứt đường lùi của quân Áo. Hai bên Pháp và Áo chiến đấu ở trận Fombio, kéo dài từ ngày 07/05 đến ngày 09/05/1796. Trận đánh này là một điểm chiến lược quyết định, khi Napoleon vượt sông Po ở hậu quân của Beaulieu (chỉ huy quân Áo), đe dọa cảthành Milan và đường liên lạc của quân Áo. Mối đe dọa này đã buộc quân Áo phải rút lui về phía đông. Sớm ngày 07/05, lực lượng cận vệ tiền quân (gồm 3500 lính ném lựu grenadier và 1500 kỵ binh) chiếm được một bến tàu gần Piacenza và nhanh chóng vượt sông. Đại tá Jeean Lannes là người Pháp đầu tiên có mặt ở bờ bắc con sông. Quân Pháp nhanh chóng tạo một đầu cầu phía bờ bắc con sông. Một lực lượng quân Áo gồm 4000 bộ binh và 1000 kỵ binh nhanh chóng phát hiện người Pháp và một vài cuộc tấn công đã diễn ra trong ngày. Sau khi Beaulieu nghe được tin báo, ông ra lệnh cho Vukassovich hành quân về Valeggio để hỗ trợ quân Áo tại đó, đồng thời ra lệnh cho quân đội bắt đầu rút lui về hướng sông Adda. Trong lúc ấy, Augereau, sư đoàn trưởng quân Pháp đã đưa 7000 lính của mình vượt sông Po xa về phía Tây bằng cách sử dụng một cây cầu ông chiếm được. Vào sáng ngày 08/05, quân Pháp dưới sự chỉ huy của tướng Dallemagne và được hỗ trợ bởi 6500 quân thuộc sư đoàn của Laharpe, tấn công ngôi làng Fombio. Ban đầu quân Áo chống cự mãnh liệt, sử dụng khinh kỵ binh hussar để phản công lại. Nhưng sau đó, chỉ huy quân Áo quyết định rút lui để tránh bị bao vây bởi cánh quân Pháp đang tiếp cận từ bên cánh. Sau khi quân Áo rút lui vềCodogno, quân Pháp tiếp tục tấn công quân Áo tại Codogno, buộc quân áo phải chiến đấu để lùi về Pizzighettone, nơi có một cây cầu bắt qua sông Adda. Chỉ trong khoảng từ ngày 07-08/05, quân Áo mất 568 người, trong khi theo một báo cáo, quân Pháp mất 150 người, bị thương 300 người trong loạt đạn đầu tiên. Tối hôm đó, khiLaharpe cùng lữ đoàn bộ binh số 51 hành quân qua Codogno, quân Áo với 1000 bộ binh và 580 khinh kỵ binh uhlans tấn công thị trấn từ phía Tây. Trong một cuộc đụng độ tại một con đường tối, Laharpe bị giết, nhiều khả năng do bị trúng đạn từ phe mình. Lữ đoàn trưởng Berthiernhận quyền chỉ huy và nhanh chóng tăng viện thêm 2 lữ đoàn nữa vào cuộc chiến trước khi quân Áo rút lui vào hừng đông ngày 09/05. Bị chặn lại khỏi cây cầu qua sông Adda tại Pizzighettone, chỉ huy quân Áo Beaulieu buộc phải chỉ huy quân của mình làm một cây cầu tại Lodi xa về phía Bắc. Kết thúc trận Fombio, quân Pháp, với 11 500 quân tham chiến, mất 450 người, trong khi quân Áo với 6580 quân tham chiến, mất 1568 người và 20 đại bác. Ngày 10/05, Napoleon truy kích quân Áo của Beaulieu tại Lodi. Trận Lodi bắt đầu, quân Pháp do Napoleon chỉ huy, với 15 500 bộ binh, 2000 kỵ binh và 30 đại bác, tấn công hậu quân của quân Áo, với 9500 quân và 14 đại bác. Khoảng 9 giờ sáng ngày 10/05, tiền quân của Napoleon bắt kịp hậu quân của Áo do Vukassovich chỉ huy trên đường hành quân đến Lodi. Quân Áo nhanh chóng được hỗ trợ bởi quân phòng thủ gần thị trấn Lodi. Tuy nhiên khả năng phòng ngự của thị trấn không mạnh, quân phòng thủ cũng ít và quân Pháp đã có thể tiến vào bên trong thị trấn đồng thời hướng về phía cây cầu. Lúc này cây cầu được phòng thủ từ bờ phía xa bởi 9 tiểu đoàn bộ binh xếp thành 2 hàng cùng 14 khẩu đại bác. Tướng chỉ huy quân Áo phỏng thủ tại Lodi, cũng có 4 đoàn kỵ binh Naples (Sicily) như quân dự bị, nâng tổng số quân Áo phòng thủ lên 6577 người, tuy nhiên gần như tất cả đều trong tình trạng kiệt sức do phải hành quân nhanh. Quân Áo quyết định không nên rút lui vào ban ngày, và sẽ cầm cự đến đêm. Lính Pháp phát hiện người Áo đang cố gắng phá hủy cây cầu, quân Pháp nhanh chóng ngăn chặn bằng cách cho đại bác bắn dọc cây cầu. Lẽ ra chuyện phá hủy cây cầu để chặn đứng cuộc truy kích của người Pháp khá là đơn giản mới đúng, vì cây cầu làm bằng gỗ, có thể châm lửa đốt cháy nó, và nó là một cây cầu đơn sơ được dựng nhanh chóng bằng cách cắm các cọc gỗ xuống lòng sông và gác những cây xà lên trên làm thành đường đi (thời hiện đại ngày nay thì xài cầu phao do công binh xây dựng nhanh và cơ động). Tiền quân Pháp không đủ mạnh để có thể thử vượt sông, vậy nên sau vài giờ chờ đợi, càng nhiều quân Pháp đến được bờ sông. Suốt buổi chiều, một cuộc chiến đại bác bạo lực bắt đầu, khi pháo binh Pháp đến và bắt đầu bắn dọc theo con sông. Có nguồn cho rằng, đích thân Napoleon đã chỉ huy một số khẩu pháo, và quân lính bắt đầu gọi ông là “le petit caporal”, nghĩa là hạ sĩ bé nhỏ vì điều này, tuy nhiên không có bất kỳ tài liệu hay bằng chứng nào chứng minh được việc này. Nhưng Napoleon đúng là được quân đội mình đặt cho biệt danh này, kiểu như một cách gọi thân mật của người phương Tây dành cho người mình có quan hệ thân thiết (Napoleon rất được lòng quân, có tài liệu nói ông thuộc tên biết mặt từng người lính trong đội cận vệ già The Old Guard của mình). Khoảng 6 giờ tối, quân Pháp bắt đầu chuẩn bị tấn công, kỵ binh Pháp vượt sông ở thượng nguồn, và một đoàn quân gồm tiểu đoàn carabine số 2 bộ binh hạng nhẹ tinh nhuệ (súng cạc-bin, loại súng cải tiến từ súng trường hoặc súng hỏa mai, với chiều dài ngắn hơn và nhẹ hơn) bắt đầu tấn công vào bên trong những bức tường của thị trấn. Những người lính carabine này bắn đầu chiến cổng vào và đánh lên cầu. Pháo binh Áo nã đạn vào quân Pháp, lúc này đang còn trên cầu, gây một số thương vong và khiến quân Pháp ngừng lại. Nhưng một số sĩ quan cấp cao của Pháp đã chạy lên phía trước để dẫn đầu cuộc tấn công. Một số quân Pháp trèo qua cây cầu và bắt đầu bơi qua sông, đồng thời bắn về phía quân Áo. Người Áo, lúc này đã hoàn toàn kiệt sức sau một cuộc hành quân gấp, hàng giờ liền chiến đấu với quân Pháp mà không hề có thức ăn, có thể còn bị vùi dập bởi pháo binh Pháp, và có vẻ lo sợ sẽ bị bao vây bởi kỵ binh Pháp. Tinh thần họ nhanh chóng sụp đổ khi quân carabine Pháp xông về phía họ, và họ bắt đầu tháo chạy, phần lớn nhờ vào bóng tối để thoát về Crema, tuy nhiên cũng có những đơn vị dũng cảm ngăn chặn người Pháp truy đuổi họ quá gần. Một bá tước, chỉ huy trung đoàn bộ binh số 16 của Áo, hy sinh trong lúc yểm trợ cuộc rút lui mặc dù thành công, nhưng cái giá phải trả là quá đắt với quân Áo. Người Áo mất 21 sĩ quan, 5200 lính và 235 con ngựa bị giết, bị thương hoặc bị bắt, cộng thêm 14 khẩu pháo và 30 xe chở đạn dược cũng bị mất. Người Pháp mất khoảng 1000 quân. Trận Lodi không phải là một trận đối đầu quyết định vì quân Áo đã trốn thoát thành công, tuy nhiên nó trở thành nhân tố trung tâm cho huyền thoại về Napoleon, và, theo như bản thân Napoleon nói, chiến thắng này thuyết phục ông rằng ông áp đảo các vị tướng khác và vận mệnh của ông sẽ dẫn dắt ông đạt được những điều vĩ đại. Một số chú thích khác: 1. Khinh kỵ Hussar: Là khinh kỵ binh phổ biến của châu Âu vào thời điểm thế kỷ 15 và thế kỷ 16. Sau đó được các đơn vị khinh kỵ binh châu Âu sử dụng làm tên hiệu phổ biến vào thế kỷ 17 và thế kỷ 18. Có thể nhận ra họ khi họ hay mặc quân phục sặc sỡ, khoác một cái áo khoác ngoài bên vai nhưng không xỏ tay áo. Trong đó có một đội Hussar nổi tiếng của Ba Lan là Winged Hussar. 2. Uhlans: Khinh kỵ binh người Ba Lan. Thường thì họ được trang bị một cây thương dài (lancer). Họ là cơn ác mộng của kỵ binh (kỵ binh sinh ra để diệt kỵ binh) do khả năng tân công hủy diệt kỵ binh khi xung phong. Trong trận Waterloo, Napoleon đã dùng các đơn vị này để tiêu diệt gọn gàng kỵ binh của quân Anh. 3. Pháo binh dưới thời Napoleon có rất nhiều loại từ 4-8-12-24 pound, cộng thêm cái loại pháo dạng howitzer (lựu pháo), đây là loại trung gian giữa pháo nòng dài thường thấy trong các bộ phim thời này (pháo như trong hình phía dưới bài viết, được phân loại theo cân nặng của đạn như trên), và súng cối (bắn đạn lên thật cao rồi rơi xuống, tiêu diệt địch trốn sau công sự) 4. Lính ném lựu Grenadier là một loại lính bộ binh, cũng đồng thời là một danh hiệu. Lựu đạn thời kỳ đầu khá nặng, và phải là một người lính có tâm lý vững vàng, cao to, lực tay mạnh để có thể cầm cái viên lựu đạn tròn đang cháy xèo xèo này chính xác ném sang phía quân địch, vì vậy trong quân đội, grenadier vừa có nghĩa là lính ném lựu, vừa có nghĩa họ là những người lính khỏe mạnh, tinh nhuệ, rất men lỳ. Dần dần grenadier đã không chỉ còn có nghĩa là lính ném lựu nữa mà có nghĩa như một danh hiệu, một tôn xưng cho những đơn vị tinh nhuệ trong quân đội (quân bộ binh Wehrmacht của Đức quốc xã được gọi là grenadier nhằm mục đích tuyên truyền). Grenadier trong thời kỳ này có thể xem như là trọng bộ binh với khả năng cận chiến tốt, ngược với khinh bộ binh có khả năng bắn xa và chính xác. 5. Cận vệ già – the Old Guard, là lực lượng tinh nhuệ nhất, đánh nhiều chiến trận nhất cùng với Napoleon. Được tạo thành từ nhiều đơn vị: grenadier (có thể xem là trọng bộ binh), khinh kỵ, trọng kỵ, pháo binh, khinh bộ binh, vân vân và mây mây... Sẽ nói kỹ hơn với mọi người nếu có dịp. Dù sao họ là một huyền thoại, nói trong chú thích thì kỳ lắm.